Band Protocol BAND
$1.80 +0.59%
70,749 VND
  • Vốn hóa thị trường 2.49 nghìn tỷ $249,826,000 0.70%
  • Vốn hóa trong 24h qua 386.93 tỷ $9,717,440 0.59%
Nguồn cung ngoài thị trường 35,191,800 BAND
Tổng nguồn cung tối đa phát hành 100,000,000 BAND
Cập nhật lúc 08:02 - 04/02/2024

Band Protocol (BAND) là gì? Giá và thông tin về tiền điện tử BAND

Trong một thế giới mà dữ liệu là thứ vô giá, các công cụ blockchain như Band đóng một vai trò vô cùng quan trọng bằng việc cung cấp dữ liệu có thể xác minh cho các ứng dụng phi tập trung và hợp đồng thông minh.

Band Protocol (BAND) là một nền tảng oracle dữ liệu phi tập trung có khả năng tổng hợp dữ liệu trong thế giới thực và gửi nó đến các hợp đồng thông minh trên những blockchain như Cosmos và Ethereum. Các ứng dụng tài chính phi tập trung (DeFi) luôn cần một nguồn báo giá đáng tin cậy, còn những hợp đồng thông minh và ứng dụng phi tập trung (dApp) khác đòi hỏi nhiều loại đầu vào dữ liệu trong thế giới thực khác nhau, từ các sự kiện thể thao đến dự báo thời tiết, hoặc thậm chí là những con số ngẫu nhiên. Band Protocol hiện đã tìm ra một hướng đi mới trong việc mang dữ liệu ngoại tuyến đến với môi trường trực tuyến một cách an toàn và bảo mật.

Oracles là một công nghệ mới nổi và ngày càng trở nên thiết yếu trong bối cảnh blockchain ngày nay. Một trong những lý do khiến các blockchain và hợp đồng thông minh có độ bảo mật cao là bởi chúng sở hữu một hệ thống kín. Mỗi giao thức blockchain còn được xem là một dữ liệu, mặc dù thiết kế này cực kỳ an toàn và hiệu quả, nhưng nó vẫn còn vài bất cập. Hai trong số những khó khăn chính là làm thế nào để kích hoạt giao tiếp chuỗi chéo giữa các “silo” blockchain và cách cung cấp dữ liệu bên ngoài vào các hệ thống khép kín này.

Các dữ liệu oracle trên blockchain là các dịch vụ cung cấp dữ liệu off-chain một cách an toàn cho môi trường on-chain của mạng blockchain. Điều này cho phép bất kỳ nền tảng hoặc sản phẩm nào có tích hợp dữ liệu thế giới thực từ nhiệt độ, giá chứng khoán hoặc hàng hóa, lịch bay, thông báo xác định vật phẩm, được hoạt động hiệu quả.

Oracle có thể là một loại phần mềm, phần cứng, hoặc loại dữ liệu dựa trên sự đồng thuận, nó cho phép dữ liệu bên ngoài được xác minh chặt chẽ và sau đó được cung cấp cho môi trường blockchain. Những oracle này cũng có thể xuất dữ liệu on-chain một cách an toàn ra thế giới bên ngoài. Để dễ hiểu hơn, oracles đóng vai trò như một cầu nối dữ liệu với các hợp đồng thông minh hoạt động trên nền tảng blockchain.

Các Oracle trong lĩnh vực Bloackchain | Nguồn: haimanh

Các Oracle trong lĩnh vực Bloackchain | Nguồn: haimanh

Nhắc lại: Hợp đồng thông minh đầu tiên được bắt nguồn từ blockchain Ethereum, nó là một đoạn mã tự thực thi với khả năng thực hiện một tập hợp các chỉ dẫn cho sẵn, sau đó được xác minh trên blockchain có liên quan. Bạn có thể coi chúng như các viên gạch xây lập trình được dùng để phát triển blockchain. Hợp đồng thông minh có nhiều loại từ các ứng dụng đơn giản đến phức tạp - chẳng hạn như các công cụ tài chính phi tập trung (DeFi) và ứng dụng phi tập trung (dApps).

Hợp đồng thông minh sở hữu một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của lĩnh vực blockchain đầy tiềm năng, nhưng độ an toàn và tin cậy của hợp đồng thông minh sẽ phụ thuộc theo dữ liệu mà chúng nhận được. Ví dụ: các ứng dụng DeFi dựa vào nguồn tin giá cả chính xác từ khắp các thị trường để có thể hoạt động tốt. Còn các dApp khác lại cần dữ liệu từ các sự kiện trong thế giới thực như thời tiết tại địa phương, hay kết quả của một sự kiện thể thao.

Đây là nơi mà các dữ liệu oracle trở nên cực kỳ quan trọng đối với các hợp đồng thông minh và các nền tảng được xây dựng dựa trên chúng. Các oracle phi tập trung sử dụng cơ chế sự đồng thuận để đạt được kết quả xác định và không cần sự tin cậy, điều này cũng tương tự như cách mạng blockchain làm: bằng cách phân phối sự tin tưởng giữa nhiều người tham gia mạng - và sau đó cung cấp dữ liệu đó cho các bên yêu cầu.

Band Protocol là một dự án oracle phi tập trung kết nối dữ liệu của thế giới thực với hệ sinh thái blockchain. Nó sử dụng một blockchain công khai- còn được gọi là BandChain - cho phép bất kỳ thực thể nào yêu cầu dữ liệu từ các giao diện lập trình ứng dụng (API) hoặc các dịch vụ web truyền thống khác.

Trước khi chúng ta đi sâu về tìm hiểu cách thức hoạt động của Band protocol, bạn cũng nên làm quen với cấu trúc cơ bản của nó và xác định nó thuộc hệ sinh thái nào. Mặc dù Band protocol hoạt động trên nhiều blockchain, bao gồm cả Ethereum, nhưng nó vẫn là một phần của Cosmos Network - một mạng lưới được thiết kế nhằm tạo ra các hệ thống blockchain kết nối với nhau. Band protocol được xây dựng trên Cosmos SDK, sử dụng cơ chế đồng thuận Byzantine Fault Tolerant (BFT) của Tendermint và thích kết nối với các blockchain khác thông qua giao thức giao tiếp xuyên chuỗi (Inter-Blockchain Communication Protocol (IBC) của Cosmo.

Các tiêu điểm chính của Band protocol nằm ở tốc độ, khả năng mở rộng, khả năng tương thích chuỗi chéo, và tính linh hoạt cho dữ liệu. Phát triển hợp đồng thông minh là nền tảng của lĩnh vực dApp DeFi - những lĩnh vực đang phát triển nhanh chóng. Band Protocol tìm cách cung cấp dữ liệu đáng tin cậy cho nhiều loại blockchain công khai - với thời gian phản hồi được tính bằng giây. Để hỗ trợ đầy đủ nhu cầu dữ liệu của yêu cầu hợp đồng thông minh, cần có phản hồi nhanh và chính xác.

Một trong những thách thức chính bắt nguồn từ bản chất ngu ngốc của các giao thức blockchain riêng lẻ là giao tiếp xuyên chuỗi. Là một dự án dựa trên Cosmos, Band Protocol có khả năng gửi dữ liệu của nó đến các blockchain khác thông qua IBC trên Cosmos - một lớp giao tiếp có thể tương tác giữa các mạng blockchain khác nhau. Band Protocol cũng hỗ trợ đường một chiều tùy chỉnh, cho phép truyền dữ liệu nhanh chóng với các blockchains không được IBC hỗ trợ.

Band Protocol cố gắng duy trì thuyết bất khả tri, nghĩa là nó có thể thích nghi với vô vàn dạng dữ liệu và nhiều phương pháp truy xuất dữ liệu khác nhau. Một số dữ liệu trong Band protocol cần phải được truy xuất thì mới có thể truy cập công khai, nhưng một vài dữ liệu khác cũng cần được cấp phép, bảo vệ bởi các tổ chức tập trung, hoặc tồn tại sau một “bức tường phí”

Nếu đúng theo vế sau, thì việc thanh toán cho nguồn dữ liệu có thể được xác minh on-chain và những nhà xác minh yêu cầu truy suất dữ liệu có thể phải cung cấp một khoản tương ứng. Các nhà cung cấp dữ liệu có thể kiếm tiền từ dữ liệu của họ bằng cách sử dụng thanh toán on-chain của Band Protocol, và tránh sử dụng những nhà trung gian.

Khi sử dụng Band protocol, quá trình xác minh dữ liệu thông qua sự đồng thuận được thực hiện bởi những người tham gia mạng sở hữu token BAND. BAND là token của Band Protocol và được sử dụng làm tài sản thế chấp bởi các node xác minh dữ liệu trong thế giới thực được gửi đến các blockchain khác nhau.

Các node trong Band protocol được chia thành hai loại: nhà xác thực và nhà ủy quyền. Cấu trúc hai node này khá phổ biến trong các blockchains Delegated Proof-of-Stake (Bằng chứng cổ phần được ủy quyền-DPoS) dựa trên Cosmos.

Nhà xác thực đề xuất các block mới và tham gia vào giao thức đồng thuận DPoS của Band Protocol bằng cách bỏ phiếu về tính chính xác của dữ liệu. Nhà xác thực BandChain hoạt động tương tựxác thực trên các blockchain khác được xây dựng bằng Cosmos SDK. Tuy nhiên, tính độc đáo của chúng nằm ở khả năng thực thi các yêu cầu truy xuất dữ liệu bên ngoài. Để làm như vậy, người xác nhận sẽ phải trả một khoản phí. Khi một hợp đồng thông minh yêu cầu dữ liệu thông qua hệ thống tiên tiến của Giao thức ban nhạc, các trình xác thực được chọn ngẫu nhiên sẽ cố gắng truy xuất thông tin được yêu cầu và sau đó gửi dữ liệu trong một báo cáo tới BandChain.

Sau đó, các báo cáo riêng lẻ của trình xác thực được tổng hợp thành một kết quả cuối cùng thống nhất. Kết quả đó được lưu trữ vĩnh viễn trên giao thức băng tần, có sẵn cho hợp đồng thông minh yêu cầu và sẵn sàng được gửi đến các blockchain khác.

Hệ thống Band Protocol | Nguồn: i0.wp

Hệ thống Band Protocol | Nguồn: i0.wp

Mạng Band Protocol sử dụng token BAND của nó để khuyến khích các nhà xác thực tạo block mới, kêu gọi họ tham gia vào quá trình đồng thuận, và phản hồi các yêu cầu dữ liệu. Bản thân BAND cũng có vài tính năng độc đáo như việc sở hữu vòng lặp token ERC-20 dựa trên Ethereum - phần còn lại của các giai đoạn trước đó của giao thức như một nền tảng tập trung vào Ethereum - cũng như một dạng mạng chính của band protocol thế hệ mới. Cả hai có thể hoán đổi cho nhau theo tỷ lệ 1: 1, nhưng chỉ coin mới trên mainnet mới được sử dụng cơ chế staking .

Những ai stake nhiều BAND nhất trên mạng lưới sẽ trở thành nhà xác thực BandChain. Còn những người không có đủ tiền số để stake và trở thành người xác thực vẫn có thể trở thành người ủy quyền bằng cách ủy quyền số coin của họ cho những nhà xác thực mà họ muốn. Nhà ủy quyền lần lượt nhận được phần thưởng block tương ứng với tỷ lệ phần trăm số BAND mà họ đóng góp so với tổng toàn bộ số BAND mà nhà xác thực đã stake. Hai phần trăm trong thông phần thưởng block cũng được chuyển cho nhóm tài trợ cộng đồng với lợi ích thúc đẩy sự phát triển cộng đồng và phát triển hệ sinh thái.

Tương tự như những hệ thống Proof-of-Stake (bằng chứng cổ phần-PoS) khác, những nhà xác thực hoạt động sai mục đích hoặc ngừng hoạt động quá lâu trên mạng có thể bị cắt giảm stake. Với Bang protocol nói riêng, nhà xác thực cũng có thể bị cắt vì không phản hồi các yêu cầu dữ liệu.

BAND sử dụng mô hình cung cấp lạm phát để khuyến khích người dùng stake BAND của mình lên mạng lưới thay vì chỉ nắm giữ hoặc giao dịch chúng. Việc này nhằm giúp những ai nắm giữ BAND cũng sẽ cần tăng lượng tài sản sở hữu lên để không bị mất giá theo thời gian do nguồn cung lạm phát - cách hiệu quả nhất để làm điều đó là tham gia vào các hoạt động mạng và kiếm phần thưởng. Tỷ lệ lạm phát hàng năm của BAND dao động từ 7% đến 20%, với các điều chỉnh thường xuyên vì lợi ích duy trì 66% tổng nguồn cung token đã stake.

BAND cũng cho phép người nắm giữ tham gia vào quản trị giao thức. Quyền biểu quyết của người tham gia mạng tỷ lệ thuận với số BAND mà họ đã stake. Các đại biểu được khuyến khích tham gia vào quản trị và nếu họ chọn không tham gia, quyền biểu quyết của họ sẽ tự động được giao cho những người xác nhận mà họ đã ủy quyền. Ngược lại, nếu một nhà ủy quyền bỏ phiếu, họ sẽ ghi đè các phiếu được chỉ định cho những nhà xác nhận tương ứng của họ, tạo ra quyền lực cân bằng giữa nhà xác nhận và nhà ủy quyền.